Thực đơn
Nghiêm Phục Di sản tri thứcNghiêm Phục là một trong những học giả tiên phong trong việc giới thiệu các quan điểm xã hội, kinh tế và chính trị của phương Tây đến Trung Quốc. Ông đã dịch một lượng lớn các tác phẩm kinh điển như: Tiến hóa và Đạo đức của Thomas Huxley, Của cải của các quốc gia của Adam Smith, Bàn về tự do của John Stuart Mill và Nghiên cứu Xã hội học của Herbert Spencer.[70] Nỗ lực phiên dịch của Nghiêm Phục có thể nói là chưa từng có trong lịch sử. Những bản dịch trước đây chủ yếu tập trung vào chủ đề công nghệ và tôn giáo, hầu hết đều được dịch bởi những nhà truyền giáo với sự giúp đỡ từ sinh viên Trung Quốc và những bản dịch tiếng Nhật của tác phẩm gốc. Nhưng với những năm du học tại Anh và sự hiểu biết nghiêm túc về nền văn minh phương Tây, Nghiêm Phục đã sử dụng tiếng Trung cổ điển tao nhã để dịch các tác phẩm tiếng Anh về các chủ đề xã hội, triết học và chính trị. Ông không chỉ viết nhiều về các vấn đề hiện tại, mà còn rất sắc sảo và uyên bác trong nỗ lực đánh giá nền văn minh phương Tây và tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển của Trung Quốc.[71]
Năm 1895, Nghiêm Phục bắt đầu xuất bản những bài luận của mình trên Trực báo – một tờ báo Trung Quốc do một người Đức Constantin von Hannecken (1854–1925) thành lập tại Thiên Tân.[56] Liên tiếp 4 bài luận của ông đã gây tiếng vang lớn:[72][73] Luận thế biến chi cấp (論世變之亟; "Về tính cấp thiết của sự thay đổi thế giới") lần lượt được xuất bản trong ngày 4 và 5 tháng 2,[74][75][76] Nguyên cường (原強; "Nguồn gốc sức mạnh") được xuất bản từng phần từ ngày 4 đến ngày 9 tháng 3,[77][78][79] Ích Hàn (辟韓) phản bác tư tưởng của Hàn Dũ được in liên tiếp hai ngày 13 và 14 tháng 3,[79][80][81] và tác phẩm cuối cùng là Cứu vong quyết luận (救亡決論; "Quyết luận cứu nước") được xuất bản rải rác từ đầu tháng 5 đến 16 tháng 6.[74][82][83] Kể từ khi bốn bài luận liên tiếp được xuất bản, nhiều tác phẩm về sau của Trung Quốc không chỉ bị ảnh hưởng bởi Nghiêm Phục mà còn có xu hướng mở rộng phạm vi quan điểm của ông.[84][85]
Sau đó, từ năm 1898 đến năm 1909, Nghiêm Phục tiếp tục dịch các tác phẩm lớn về tư tưởng tự do phương Tây:[86]
Tác phẩm gốc | Tác phẩm dịch | Năm | Nguồn | ||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên gốc | Tạm dịch | Tác giả | Tên gốc | Phiên âm Hán-Việt | Tạm dịch | ||
Evolution and Ethics | Tiến hóa và Đạo đức | Thomas Henry Huxley | 天演論 | Thiên diễn luận | Về sự tiến hóa | 1898 | [87][88][89] |
The Wealth of Nations | Của cải của các quốc gia | Adam Smith | 原富 | Nguyên phú | Về sự giàu có | 1901–1902 | [90][91][92] |
The Study of Sociology | Nghiên cứu Xã hội học | Herbert Spencer | 群學肄言 | Quần học dị ngôn | Nghiên cứu Xã hội học | 1902–1903 | [93][94][95] |
On Liberty | Bàn về tự do | John Stuart Mill | 群己權界論 | Quần kỷ quyền giới luận | Về ranh giới giữa tập thể và bản thân | 1903 | [96][97][98] |
A History of Politics | Lịch sử Chính trị | Edward Jenks | 社會通詮 | Xã hội thông thuyên | Toàn bộ giải thích về xã hội | 1904 | [99][100][101] |
De l'Esprit des Lois | Tinh thần pháp luật | Montesquieu | 法意 | Pháp ý | Ý nghĩa của pháp luật | 1904–1909 | [102][103][104] |
A System of Logic | Hệ thống logic | John Stuart Mill | 穆勒名學 | Mục Lặc danh học | Logic học của Mill | 1905 | [105][106][107] |
Primer of Logic | Logic vỡ lòng | William Stanley Jevons | 名學淺說 | Danh học thiển thuyết | Sơ lược về logic học | 1909 | [108][109][110] |
Nghiêm Phục là một dịch giả thời cận đại được tiếp thu nền giáo dục của cả Trung Quốc và phương Tây. Ông được xem là người đầu tiên của Trung Quốc cho ra đời một tiêu chuẩn phiên dịch hoàn chỉnh.[111] Trong lời tựa của Thiên diễn luận, ông đã đưa ra 3 khó khăn khi dịch thuật: "Tín" (信, faithfulness), "Đạt" (达, expressiveness) và "Nhã" (雅, elegance). "Tín" tức trung thành, đòi hỏi nghĩa của ngôn ngữ đích phải trung thành với nghĩa của ngôn ngữ nguồn. Tuy nhiên, nếu bản dịch không thể mạch lạc thì việc dịch thuật cũng trở nên vô nghĩa, đó là lý do "Đạt" cũng cần được ưu tiên. "Đạt" yêu cầu một bản dịch mạch lạc dễ hiểu, không cần tuân theo thứ tự chính xác của các từ và cấu trúc câu trong ngôn ngữ gốc nhưng được tổ chức lại và trau chuốt để tôn trọng các quy tắc của ngôn ngữ đích. Cuối cùng là "Nhã" yêu cầu văn bản dịch cần được trau chuốt về mặt ngôn ngữ, văn phong và từ ngữ cần phải trang nhã.[112]
Sau khi lý thuyết này được công bố đã nhận được sự tiếp nhận và tôn sùng của nhiều học giả. Nhà thơ Úc Đạt Phu (zh; en) xem đấy là "khuôn vàng thước ngọc" của giới dịch thuật; dịch giả nổi tiếng Lâm Ngữ Đường nhận định 3 chữ "tín, đạt, nhã" ẩn hàm nhiều ý kiến, đã từng bình luận kỹ càng về ba nguyên tắc này.[113] Học giả Chu Chí Du từng bình luận, việc Nghiêm Phục công bố thuyết "Tín, đạt, nhã" đã trở thành cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử dịch thuật Trung Quốc.[114] Không chỉ ở Trung Quốc, lý thuyết dịch thuật của Nghiêm Phục còn có tầm ảnh hưởng lớn đến giới dịch thuật thế giới.[115]
Bên cạnh việc biên dịch các tác phẩm khoa học phương Tây kinh điển, Nghiêm Phục còn cho ra đời những tác phẩm về xã hội học. Tác phẩm đầu tiên được xuất bản vào năm 1906 mang tên Chính trị giảng nghĩa (政治講義; "Bài giảng Chính trị"). Trong tác phẩm này, ông đã chỉ trích luật tự nhiên và thuyết tất định của những nhà triết học như Plato, Rousseau.[116][117][118] Sau hơn 7 năm bỏ thời gian cho những tác phẩm về Logic học, Nghiêm Phục liên tiếp cho ra nhiều tác phẩm khác về xã hội học. Hai tác phẩm Thiên diễn tiến hóa luận (天演進化論; "Thuyết tiến hóa") giới thiệu và bàn luận kỹ về Học thuyết tiến hóa của Darwin,[82][119][120] Thuyết Đảng (說黨; "Nói về Đảng") nêu quan điểm "Đảng không phải điều gì tốt", các mặt lợi, hại của việc 2 Đảng cùng tồn tại, đều được xuất bản trong năm 1913.[121][122][123] Sang năm 1914, ông cho ra mắt tác phẩm Dân ước bình nghị (民約平議) bình luận về Khế ước xã hội của Jean-Jacques Rousseau.[124][125][126] Thông qua những tác phẩm này, một số nhà nghiên cứu đã nhận định ông có xu hướng chỉ trích hệ thống Triết học lục địa (hay Chủ nghĩa duy lý Lục địa) khi liên tiếp nhắm đến các lý thuyết liên quan như luật tự nhiên và thuyết tất định.[127]
Dân ước bình nghị có thể xem là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nghiêm Phục trong lĩnh vực này. Nghiêm Phục không tán thành "chủ nghĩa hoàn hảo" trong chủ nghĩa duy lý truyền thống; ông thích Chủ nghĩa kinh nghiệm của Anh – Mỹ, khi sự tự do phát triển ra khỏi xã hội cũ. Ông đã chỉ trích lý thuyết Khế ước xã hội của Rousseau bởi sự phụ thuộc vào các nguyên tắc trừu tượng và sự thiếu hiểu biết về kinh nghiệm thực tế cũng như thực tế lịch sử. Trong Thuyết Đảng, ông lên án việc sử dụng luật tự nhiên để đo lường truyền thống vì nó chỉ có thể dẫn đến chủ nghĩa cấp tiến chính trị. Trong Thiên diễn tiến hóa luận, ông lập luận chống lại sự phá hủy cái cũ bởi theo ông, điều đó chắc chắn dẫn đến sự tan rã của cả cái cũ lẫn cái mới. Có thể thấy được, rất lâu trước các nhà trí thức khác của Trung Quốc, Nghiêm Phục đã hiểu được cuộc đấu tranh giữa Chủ nghĩa duy lý Lục địa và Chủ nghĩa kinh nghiệm Anh, sự đối lập giữa các phương pháp suy luận và quy nạp tương ứng của họ, mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa không tưởng, giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và cải cách dần dần.[127]
Thực đơn
Nghiêm Phục Di sản tri thứcLiên quan
Nghiêm Nghiêm Phục Nghiêm Xuân Yêm Nghiêm Ngật Khoan Nghiêm Xuân Thành Nghiêm Kim Hải Nghiêm Xuân Tú Nghiêm Nhan Nghiêm Phú Phi Nghiêm Gia CamTài liệu tham khảo
WikiPedia: Nghiêm Phục http://rwxy.tsinghua.edu.cn/rwfg/ydsm/ydsm-qw/0010... http://www.guoxue.com/master/yanfu/yanfu.htm http://data.bibliotheken.nl/id/thes/p143486691 //doi.org/10.1016%2Fj.langsci.2007.07.007 //doi.org/10.1080%2F10971467.2015.1255089 //doi.org/10.1163%2F9789004268784_006 //doi.org/10.1163%2F9789004270220_008 //doi.org/10.1163%2F9789047426844_005 //doi.org/10.1163%2F9789401207195_004 //doi.org/10.16995%2Fane.135